Gốc dầu quyết định trên 95% chất lượng đặc tính của dầu bôi trơn ! Phụ gia dầu nhớt đóng vai trò hỗ trợ bổ sung. Không có cách nào tốt hơn để "đọc vị " bất kì chủng loại dầu nhớt nào thông qua gốc dầu của nó là gì ? Nói cách khác bạn có thể nhìn thấu chất lượng bất kì dầu thủy lực, động cơ, cắt gọt v.v...thông qua gốc dầu tạo ra nó.
Với Dầu máy nén khí, dầu máy công nghiệp đặc tính dầu mang tính chất phù hợp quan trọng hơn tính tốt nhất. Với một lý do đơn giản số lượng dầu dùng trong nhà máy đơn vị tính bằng trăm, hàng nghìn lít. Nên mua loại tốt quá là lãng phí, mua kém quá là phá máy, thiết bị sản xuất. Thấu hiểu dầu gốc có thể tiết kiệm cho nhà máy bạn từ vài triệu đến vài tỉ đồng cho nhà máy của bạn.
Thấu hiểu gốc dầu không chỉ mang lại giá trị kinh tế. Nó còn giúp kĩ thuật giải quyết nhiều vấn đề kĩ thuật nan giải của hệ thống khí nén.
Không có một loại dầu nào phù hợp với tất cả loại máy, công nghệ, tình hình sử dụng riêng của từng nhà máy !Dầu chiếm 70% nguyên nhân gây hư hỏng máy nén khí ngâm dầu. Thấu hiểu và áp dụng vào máy nén khí bạn đang sử dụng bạn có thể loại bỏ phần lớn hư hỏng cho máy nén khí của bạn.
2. Phân loại dầu gốc, một nửa sự thật !
➝Dầu gốc khoáng
➝Dầu gốc tổng hợp
➝Dầu bán tổng hợp
3. Phân loại theo API 1509, Phụ lục E
➝Dầu gốc nhóm I
➝Dầu gốc nhóm II
➝Dầu gốc nhóm III
➝Dầu gốc nhóm IV
➝Dầu gốc nhóm V *
4. Nhóm dầu gốc phổ biến
➝Gốc PAO
➝Diester
➝Gốc POE Blend
➝PE Coolants
➝Gốc POE
➝PAG
➝Naphthenic
➝Silicon...
5. Tuổi thọ dầu tương ứng nhóm gốc dầu
6. Sụt giảm tuổi thọ gốc dầu tương ứng nhiệt độ
7. Cấm Được phép pha trộn lẫn dầu vào máy
8. Xu hướng sử dụng gốc dầu
1, Dầu gốc là gì ?
Dầu gốc (Bass oil) thành phần chính tạo nên dầu bôi trơn. Dầu gốc chiếm 70~99.9% tỉ trọng thành phần cấu tạo nên dầu bôi trơn thành phẩm. Riêng với dầu máy nén khí tỉ lệ này thu hẹp trong phạm vi 85~95%. Phần còn lại chính là Phụ gia dầu nhớt.
Dầu gốc quyết định trên 95% đặc tính của dầu thành phẩm. Hay nói cách khác chất lượng một loại dầu nhớt bôi trơn bất kì phụ thuộc vào Chất lượng / phẩm cấp dầu gốc, phụ gia mang tính chất bổ sung, bảo vệ, nâng cao hoặc hạn chế một đặc tính chính của dầu gốc.
Khởi nguồn cho khái niệm dầu gốc cũng chính là khởi đầu cho ngành dầu nhớt được tinh chế từ dầu mỏ. Nhà bác học người Nga D.I.Mendeleev chính là một trong những người chú ý đầu tiên đến vấn đề dùng mazut để chế tạo ra dầu nhớt bôi trơn. Năm 1870 ở Creem (Nga), tại nhà máy Xakhanxkiđơ bắt đầu chế tạo được dầu nhớt từ dầu mỏ.
2, Phân loại gốc dầu một nửa sự thật !
Có một sự thật ẩn khuất sau cách phân loại thường dùng tư vấn cho khách hàng là phân loại dầu gốc khoáng-dầu gốc tổng hợp. Tuy nhiên cách phân loại này không nói hết nên bản chất của dầu nhớt. Nó còn bị thương mại lợi dụng tư vấn cho khách hàng sai lệch, tránh tráo khái niệm, dầu kém/ trung bình lẫn với dầu cao cấp.
Thực tế sử dụng cho thấy dầu gốc khoáng nhóm III có khả năng hoạt động tương tự dầu gốc tổng hợp nhóm IV. Tức loại dầu tốt nhất của dầu khoáng có chất lượng gần như tương đồng với dầu tổng hợp nhóm IV. Cũng có một số phòng thí nghiệm đã nghiên cứu về vấn đề này họ nhận thấy chúng còn tương đồng về công thức hóa học, tuổi thọ cũng như tính năng.
Điều quan trọng với công ty thương mại nếu 02 sản phẩm có cùng gốc dầu(Khách hàng xếp ngang chất lượng) thì cái nào rẻ mang lại lợi nhuận cao thì ưu tiên bán. Tương tự với dầu tổng hợp, có nhiều mã sản phẩm chỉ mang mác dầu tổng hợp nhưng chất lượng của dầu khoáng nhóm III.
Không thể tóm gọn cả ngành dầu nhớt đa dạng, tích tụ hàng trăm năm công nghệ chưng cất, hóa lọc dầu, công nghệ mới thành 02 loại dầu tốt - xấu.
Nhằm đem đến cái nhìn toàn diện Huy xin tổng hợp nội dung về gốc dầu, xắp xếp, diễn giải theo trình tự. Huy nhận thấy cách phân loại gốc dầu thành 05 nhớm theo Viện Dầu mỏ Hoa Kỳ (API) là khoa học và chính xác. Đồng thời kết hợp cách thức phân loại dầu gốc tổng hợp-gốc khoáng, phân loại theo tên nhóm gốc dầu. Tùy theo ngành nghề bạn đang làm việc sao cho thuận tiện.
Với quan điểm riêng của Huy, phân loại dầu máy nén khí theo tên gốc dầu PAO, PE, PAG... phù hợp với mục đích sử dụng ngành khí nén. Tên gốc dầu sẽ nói chính xác đặc tính nhóm dầu, đồng thời có thể biết được tuổi thọ dầu, nó có được dùng cho thực phẩm không ? cùng nhiều đặc tính thuận lợi cho lựa chọn, đánh giá dầu máy nén khí.
Tiếp theo Huy cùng bạn đi tìm hiểu lần lượt khái niệm cho từng cách phân loại.
Dầu gốc khoáng là gì ?
Dầu gốc khoáng(Mineral Oil) là sản phẩm thu được từ quá trình chưng cất dầu mỏ.Trước đây Dầu gốc khoáng vốn được coi là một sản phẩm phụ từ quá trình tinh chế dầu thô để sản xuất nhiên liệu xăng dầu. Dầu gốc khoáng được cấu tạo chủ yếu từ các loại alkan và các hợp chất hữu cơ cycloalkanes, liên quan đến dầu mỏ. Nó có tỉ trọng~ 0,8 g/cm3.
Dầu gốc khoáng, là hỗn hợp phức tạp của hydrocacbon và parafin có trong tự nhiên. Công nghệ tinh luyện về bản chất sẽ vẫn tồn dư tạp chất không mong muốn.
Dầu gốc tổng hợp là gì?
Dầu tổng hợp (Synthetic oil) là dầu được chế biến từ việc tổng hợp (qua quá trình xử lý hóa học, vật lý) các thành phần của hydrocacbon từ dầu thô hoặc nguyên liệu khác.
Hay nói cách khác dầu tổng hợp là sản phẩm tổng hợp do con người tạo ra từ những chất/hợp chất tinh khiết. Chúng được điều chỉnh để có cấu trúc phân tử được kiểm soát với đặc tính có thể dự đoán được.
Chính vì nguyên liệu đầu vào, quy trình, công nghệ tạo ra dầu gốc tổng hợp phức tạp hơn nên giá thành luôn cao hơn nhiều dầu gốc khoáng. Đồng thời có chất lượng cao, ổn định cao hơn dầu gốc khoáng.
Dầu gốc bán tổng hợp
Gốc dầu bán tổng hợp là hỗn hợp trộn lẫn giữa gốc khoáng nhóm I,II,III với gốc dầu tổng hợp nhằm cải thiện một số tính năng của dầu gốc khoáng. Hoặc có thêm một tính năng ưu việt của dầu gốc tổng hợp nhưng với giá thành rẻ hơn.
Một số hãng có tỉ lệ dầu gốc tổng hợp thấp hơn 30% nhưng có phụ gia hiệu suất cao bao gồm các este cũng có thể được coi là dầu nhớt tổng hợp.
3, Phân loại gốc dầu theo API-Viện dầu mỏ Hoa Kỳ
Vào đầu những năm 1990, Viện Dầu mỏ Hoa Kỳ(API) đã triển khai một hệ thống mô tả các loại dầu gốc khác nhau. Kết quả giới thiệu phân loại dầu gốc thành 05 nhóm (API 1509, Phụ lục E).
Dầu gốc nhóm I,II,III được tinh chế từ dầu thô. Hay thường gọi dầu gốc khoáng.
Dầu gốc nhóm IV là dầu tổng hợp hoàn toàn gốc PAO (polyalphaolefin). Nhóm V dành cho tất cả các loại dầu gốc khác không có trong Nhóm I đến IV. Trước khi tất cả các chất
Mọi loại dầu nhớt(Dầu thủy lực, dầu động cơ, dầu máy nén khí, cắt gọt...) Trước khi thêm phụ gia, chúng đều khởi nguồn từ một hoặc nhiều gốc dầu trong 05 nhóm gốc dầu API này.
Dầu gốc nhóm I
Được sản xuất với các quá trình tinh chế đơn giản bằng dung môi (refined). Đây là lý do tại sao chúng là loại dầu gốc rẻ nhất trên thị trường.
Dầu sau tinh chế có độ bão hòa 90%, hàm lượng lưu huỳnh 0.03% (300 ppm), độ nhớt 80~120.
Thành phần >10% aromatic (vòng không no), <90% parrafinic; napthenic (cấu trúc mạch hở hay có vòng no). Dải nhiệt độ hoạt động cho dầu gốc nhóm I từ 0℃ đến 65.56℃ (150 độ F).
Trên thực tế độ tinh chế gốc dầu này có thể đạt ngưỡng thành phần aromatic chỉ chiếm từ 1-2%. Chúng thường có chỉ số độ nhớt (VI) từ 90 đến 105. Các loại dầu gốc ở mức cao nhất của thang đo thường được coi là có chỉ số độ nhớt cao (HVI), nhưng thông dụng nhất hiện nay là 100 +/-2.
Điều này liên quan đến mức độ thay đổi của độ nhớt theo nhiệt độ, tức là độ nhớt giảm (loãng ra) ở nhiệt độ cao hơn, đặc lại ở nhiệt độ thấp.
Bản chất công nghệ tinh chế dung môi được sử dụng để loại bỏ các cấu trúc hóa học yếu hơn hoặc các tác nhân xấu (cấu trúc vòng, cấu trúc có liên kết đôi) khỏi dầu thô. Tinh chế dung môi là công nghệ chính được sử dụng trong các nhà máy lọc dầu được xây dựng từ năm 1940 đến năm 1980.
Dầu gốc nhóm I thường có màu từ hổ phách đến vàng nâu do lưu huỳnh, nitơ cấu trúc vòng còn lại trong dầu. Dầu gốc Nhóm I là loại phổ biến nhất được sử dụng cho dầu công nghiệp, mặc dù ngày càng có nhiều loại dầu gốc Nhóm II được sử dụng thay thế.
Dầu gốc Nhóm II
Được tạo ra bằng cách sử dụng quá trình hydro hóa (hydrocracking) để thay thế cho quá trình tinh chế dung môi truyền thống. Đây là một quá trình phức tạp hơn so với những gì được sử dụng cho dầu gốc Nhóm I. Vì tất cả các phân tử hydrocacbon của những loại dầu này đều bão hòa.
Khí hydro được sử dụng để loại bỏ các thành phần không mong muốn khỏi dầu thô. Điều này dẫn đến một loại dầu gốc trong suốt không màu với rất ít lưu huỳnh, nitơ hoặc aromatic (vòng không no).
Gốc dầu có chỉ số độ nhớt VI thường trên 100 (Viscosity index). Dầu gốc nhóm II vẫn được coi là dầu khoáng. Chúng thường được sử dụng trong công thức dầu động cơ ô tô. Trong những năm gần đây, giá dầu gốc nhóm II đã trở tiệm cận dầu gốc Nhóm I.
Nhóm II “Plus” là một thuật ngữ được sử dụng cho dầu gốc Nhóm II có chỉ số độ nhớt VI cao hơn một chút khoảng 115, mặc dù đây có thể không phải là thuật ngữ được API chính thức công nhận.
Hàm lượng lưu huỳnh <0.01% (thường 20-40 ppm) thành phần aromatic <1% (100 ppm), chỉ số độ nhớt từ 105-115.
Dầu gốc nhóm II có đặc tính chống oxy hóa tốt hơn. Chúng cũng có màu trong hơn và có giá cao hơn so với dầu gốc Nhóm I. Tuy nhiên, dầu gốc Nhóm II đang trở nên rất phổ biến trên thị trường hiện nay với mức giá chênh lệch nhỏ dần với dầu gốc Nhóm I.
Dầu gốc Nhóm III
Gốc dầu có độ bão hòa lớn hơn 90%, ít hơn 0,03% lưu huỳnh và có chỉ số độ nhớt trên 120.
Các loại dầu này được tinh chế nhiều hơn dầu gốc Nhóm II, thậm chí tinh chế thêm một lần nữa bằng cách sử dụng quy trình khí hydro để làm sạch dầu thô, nhưng quy trình này khắc nghiệt hơn và được vận hành ở nhiệt độ và áp suất cao hơn so với sử dụng cho dầu gốc Nhóm II. Quá trình tinh chế dài hơn này được thiết kế để tạo ra dầu gốc nhóm III có độ tinh khiết hơn những nhóm trước.
Dầu gốc tạo thành trong suốt và không màu nhưng cũng có chỉ số độ nhớt VI trên 120. Ngoài ra, nó có khả năng chống oxy hóa cao hơn dầu nhóm I.
Mặc dù được làm từ dầu thô, dầu gốc Nhóm III đôi khi được mô tả là hydrocacbon tổng hợp. Giống như dầu gốc Nhóm II, những loại dầu này cũng đang trở nên phổ biến hơn.
Giá thành của dầu gốc nhóm III cao hơn nhóm I và II. Dầu gốc nhóm III được nhiều dân kỹ thuật coi là dầu khoáng vì có nguồn gốc trực tiếp từ quá trình tinh luyện dầu thô. Tuy nhiên, chúng được những người khác coi là dầu gốc tổng hợp vì mục đích tiếp thị do tin rằng quy trình hydro khắc nghiệt hơn đã tạo ra các cấu trúc dầu hóa học mới mà trước đây chưa có quy trình này. Nó đã tổng hợp (tạo ra) các cấu trúc hydrocacbon mới này.
Dầu gốc nhóm I, II và III về cơ bản phản ánh sự phát triển của công nghệ lọc dầu trong 70 hoặc 80 năm qua.
Dầu gốc nhóm IV
Dầu gốc nhóm IV chính là Dầu gốc tổng hợp polyalphaolefin (PAO) thuộc hydrocacbon tổng hợp (SHC).
Được phát triển vào những năm 1930, sản xuất thương mại đầu tiên vào năm 1970.
Dầu tổng hợp gốc PAO được dùng phổ biến nhất trong tất cả các loại dầu tổng hợp. Cộng thêm dầu có giá thành rẻ hơn nhiều gốc tổng hợp khác nên thường những sản phẩm dầu máy nén khí gốc PAO chiếm đa phần thị trường. Tiêu biểu nhất có thể kể đến dầu máy nén khí Atlas copco.
Đặc tính kĩ thuật:
Dầu gốc nhóm IV thực sự là sản phẩm tạo ra từ việc tổng hợp những hóa chất tinh khiết trong một nhà máy hóa chất chứ không phải được tạo ra bằng cách chưng cất và tinh chế dầu thô như nhóm dầu gốc I, II,III phía trên. Tuy nhiên Dầu gốc PAO làm từ khí Etylen, nó vẫn phụ thuộc vào dầu thô / khí tự nhiên.
Gốc PAO có khả năng chịu nhiệt độ cao hơn dầu khoáng.Với ngưỡng 160 °C (320 °F) nếu hoạt động liên tục, 270 °C (520 °F) trong điều kiện hoạt động không liên tục.
Chúng có dải nhiệt độ hoạt động rộng hơn nhiều và rất thích hợp để sử dụng trong điều kiện cực lạnh. Do không có hàm lượng sáp, nhờ đó nó nó hoạt động ở nhiệt độ thấp tốt nhất của tất cả các dầu tổng hợp (khoảng âm 50 °C ~ âm 60 °C). Chính bởi đặc tính này dầu gốc PAO được dùng rất nhiều trong máy nén lạnh.
Chỉ số độ nhớt VI cao hơn so với dầu khoáng (khoảng 130 đến 140).
Ít bay hơi hơn dầu khoáng (điểm chớp cháy cao hơn, ít cháy hơn, phát thải hydrocacbon thấp hơn)
Độ bôi trơn tự nhiên thấp hơn dầu khoáng
Dầu gốc PAO không hẳn ít mài mòn hơn dầu gốc khoáng (đặc tính này phụ thuộc vào chất phụ gia)
Tương thích với dầu gốc khoáng.
Nhược điểm:
không phân cực (khả năng thanh toán tự nhiên thấp, khả năng hòa tan phụ gia, độ bôi trơn và độ bền màng thấp hơn )
Hình thành cặn rắn trong máy nén Pít tông.
Phải pha trộn từ 5 đến 20 phần trăm dầu gốc ester để tăng khả năng hòa tan phụ gia và bôi trơn
Không phân hủy sinh học
Chi phí gấp bốn lần so với dầu khoáng, ít hơn so với các chất tổng hợp khác
Dầu gốc nhóm V
Bao gồm tất cả gốc dầu không được liệt kê tại 4 nhóm trước đó. Thông thường tất cả gốc dầu mới phát triển, công nghệ mới đều sếp chung vào nhóm này. Dầu gốc Naphthenic, Nhiều loại Este tổng hợp khác nhau, Polyalkylen glycol (PAGs), Este photphat, phosphate ester, polyalkylene glycol (PAG)polyolester, biolubes và những loại khác... Danh sách liên tục được tăng nên nhờ những công nghệ mới.
Những loại dầu gốc này đôi khi được trộn với các loại gốc khác để nâng cao tính chất của dầu.
Ví dụ: Dầu máy nén khí gốc PAO được trộn với polyolester.
Este là dầu gốc Nhóm V phổ biến được sử dụng trong các công thức dầu nhờn khác nhau để cải thiện các đặc tính của dầu gốc nó bổ sung. Dầu Ester có thể được dụng nhiều hơn ở môi trường máy hoạt động nhiệt độ cao hơn và sẽ cung cấp khả năng tẩy rửa cao hơn so với dầu gốc tổng hợp PAO, do đó kéo dài thời gian sử dụng của dầu.
4, Những gốc dầu phổ biến
Có sáu loại gốc chính được sử dụng trong quá trình phát triển chất bôi trơn tổng hợp, với mỗi loại cung cấp một bộ đặc tính và ứng dụng riêng. Bên cạnh còn một số gốc dầu lai, mới phát triển nhưng 06 nhóm bên dưới thuộc loại cơ bản, thường gặp nhất.
Gốc PAO
Là nhóm gốc dầu được dùng nhiều nhất trong số những gốc dầu tổng hợp. Tuy nhiên chúng lại có chất lượng thấp hơn nhiều gốc dầu tổng hợp.(Ngoại trừ gốc dầu thực vật Naphthenic).
PAO là các polyme hydrocacbon được sản xuất bằng cách xúc tác oligome hóa các alpha olefin mạch thẳng như alpha-dối trá. Chúng được coi là chất bôi trơn hiệu suất cao và cung cấp chỉ số độ nhớt cao và độ ổn định thủy phân. PAO được sử dụng phổ biến nhất và thường ít tốn kém hơn các chất bôi trơn tổng hợp khác. Chúng đã được sử dụng trong dầu động cơ xe du lịch, cũng như nhiều ứng dụng dầu nhớt công nghiệp.
Nhóm gốc dầu này hiện chiếm ưu thế nên nó xứng đáng có một bài viết dành riêng. Mời bạn xem thêm bài viết |>> Dầu gốc PAO
Este photphat
Được đánh giá cao trong các ứng dụng mà an toàn và khả năng chống cháy là những cân nhắc quan trọng, bao gồm chất lỏng thủy lực chống cháy và chất lỏng máy bay. Điểm chớp cháy và điểm cháy cao giúp tăng cường khả năng chống bắt lửa của chúng và nhiệt độ cháy thấp của chúng làm cho chúng trở thành chất lỏng tự chữa cháy tuyệt vời. Tuy nhiên, chúng có một số điểm yếu bao gồm tính ổn định thủy phân kém, có thể dẫn đến hình thành các sản phẩm phụ có tính axit mạnh. Cần phải cẩn thận khi sử dụng vì chúng cũng có thể phản ứng và làm biến chất nhiều loại chất trám và sơn thường được sử dụng.
PAG
Dầu PAG cung cấp chất lượng bôi trơn, chỉ số độ nhớt tự nhiên cao và ổn định nhiệt độ tốt. Chất lỏng gốc PAG có sẵn ở cả dạng hòa tan và không hòa tan trong nước, và có nhiều loại độ nhớt. Chúng cung cấp độ bay hơi thấp trong các ứng dụng nhiệt độ cao và có thể được sử dụng trong môi trường nhiệt độ cao và thấp. Chúng thường được sử dụng làm chất làm nguội, chất lỏng gia công kim loại, chất bôi trơn cấp thực phẩm và làm chất bôi trơn trong thiết bị thủy lực và máy nén. Tuy nhiên, dầu PAG hòa tan trong nước không tương thích với dầu mỏ, và phải cẩn thận trong thiết bị chuyển đổi từ dầu hydrocacbon sang dầu PAG.
Silicon
Silicones được đánh giá cao vì độ bay hơi thấp, trơ với hầu hết các chất gây ô nhiễm hóa học và ổn định nhiệt trong các ứng dụng khắc nghiệt, cũng như hiệu suất của chúng trong môi trường nhiệt độ thấp.
Những phẩm chất này khiến chúng trở thành một ứng cử viên tuyệt vời để sử dụng làm chất lỏng truyền nhiệt, ứng dụng mỡ đặc biệt và dầu phanh ô tô DOT Loại 5. Tuy nhiên, có hai hạn chế của silicon phải được xem xét cho các ứng dụng bôi trơn.
Đầu tiên, chúng không thể được sử dụng để bôi trơn xi lanh của động cơ đốt trong vì sản phẩm phụ của quá trình đốt cháy là silicon dioxide.
Thứ hai, hiệu suất cực áp bị hạn chế và các chất phụ gia cực áp thông thường không tương thích với chúng. Trong các ứng dụng thích hợp của chúng, tuổi thọ chất lỏng và độ ổn định thủy phân của silicon là vượt trội. Huy đặc biệt ấn tượng dầu gốc Silicon. Gốc này tạo nên dầu máy nén độ bền vĩnh cửu chỉ cần bổ sung không cần thay thế Sullair 24KT®.
Diester
Diesters , hoặc este axit bazơ , được phát triển trong Chiến tranh thế giới thứ hai và là sản phẩm phản ứng của rượu mạch dài và axit cacboxylic. Về mặt lịch sử, chúng có hiệu quả như chất bôi trơn máy nén pittông do xu hướng luyện cốc thấp ở nhiệt độ 400 ° F hoặc cao hơn. Chúng cũng cung cấp khả năng thanh toán và khả năng tẩy rửa tuyệt vời. Sự hung hăng của các chất tẩy rửa đối với chất đàn hồi, con dấu và ống mềm đã hạn chế tính hữu dụng của những chất lỏng này. Các chất lỏng mới hơn, chẳng hạn như polyol este, đáp ứng nhu cầu của nhiều ứng dụng trước đây được lấp đầy bởi bùn cát.
Gốc POE
Polyol este , hoặc Neopentyl poly este, đã thay thế phần lớn các chất diesters trong các ứng dụng nhiệt độ cao, nơi độ ổn định oxy hóa là rất quan trọng. Các ứng dụng phổ biến bao gồm việc sử dụng chúng làm chất bôi trơn trong động cơ máy bay, tuabin khí nhiệt độ cao, chất lỏng thủy lực và chất lỏng trao đổi nhiệt. Chúng cũng có thể được sử dụng làm nguyên liệu nền đồng pha trộn với PAO để tăng cường khả năng hòa tan của phụ gia và giảm xu hướng co lại và làm cứng chất đàn hồi của PAO.
Gốc POE Blend
PE Coolants
Naphthenic
5,Tuổi thọ dầu phân theo gốc dầu (Max)
2 – 4000 giờ cho lớp dầu gốc USDA H-1 PAO
6 – 8000 giờ cho gốc dầu PAO
8000 giờ cho dầu gốc Diester
8000 giờ cho dầu có các thành phần cơ bản Polyglycol/Ester
8 – 10000 giờ cho dầu có các thành phần cơ bản PAO/POE
10 – 12000 giờ cho dầu có các thành phần cơ bản POE
6, Suy giảm tuổi thọ dầu tương ứng nhiệt độ
Nhiệt độ | PAO | Diester | POE Blend | PE Coolants | POE |
---|---|---|---|---|---|
82~88°C | 8000 | 8000 | 10000 | 11000 | 12000 |
88~93°C | 6000 | 8000 | 9000 | 10000 | 11000 |
93~99°C | 4000 | 6000 | 8000 | 9000 | 10000 |
99~104°C | 2000 | 4000 | 5000 | 7000 | 9000 |
Nhìn bảng trên bạn sẽ thấy dầu gốc PAO suy giảm tuổi thọ dưới nhiệt độ cao nhiều nhất. Gốc POE có khả năng hoạt động với nhiệt độ cao tốt nhất.
Gốc dầu quyết định khả năng kháng nhiệt độ yếu tố nguy hại nhất với chất lượng dầu bôi. Bên dưới là bảng tuổi thọ tương ứng với nhiệt độ hoạt động. Để tính chính xác bạn xem chi tiết bài viết:
>> Tính tuổi thọ thực tế dầu máy nén khí
7,Được phép & cấm pha trộn lẫn gốc dầu.
Flush = Được phép pha lẫn
No Flush = không trược phép trộn lẫn.
Chiều mũi tên thể hiện chiều sảy ra Flush hoặc No Flush.
Nếu bạn vô tình trộn lẫn dầu, hoặc chuyển đổi hãng dầu máy đang xử dụng thì đây chính xác là nội dung bạn cần quan tâm. Việc xác định gốc dầu cấm kỵ pha trộn với nhau sẽ phát huy tác dụng khi bạn chuyển đồi dầu máy đang dùng sang loại dầu máy nén khí khác.
Nếu dầu mới có gốc kỵ với dầu cũ bạn cần có biện pháp xử lý triệt để dầu cũ tồn dư trong máy. Lượng dầu cũ này tuy ít(Với máy nén khí chỉ từ 1 đến vài lít). Lượng dầu cũ này thường đọng tại khe, đường ống, két làm mát... Sự nguy hiểm của phản ứng gốc dầu là rất có thể sản phẩm sau phản ứng lại tiếp tục phản ứng với dầu gốc(Phản ứng / tác động dây truyền)
8, Xu hướng sử dụng gốc dầu đang thay đổi.
Một nghiên cứu gần đây về việc sử dụng dầu gốc trong các nhà máy hiện nay so với hơn một thập kỷ trước cho thấy một sự thay đổi đáng kể đã xảy ra. Dầu gốc Nhóm II ngày nay là dầu gốc được sử dụng phổ biến nhất trong các nhà máy, chiếm 47% công suất của các nhà máy mà nghiên cứu được thực hiện.
Con số này ở thập kỉ trước là 21% đối với cả dầu gốc Nhóm II và III. Hiện tại, nhóm III chỉ chiếm dưới 1% công suất của các nhà máy. Dầu gốc nhóm I trước đây chiếm 56% công suất, so với 28% công suất của các nhà máy hiện nay.
Con số này thống kê cho toàn ngành dầu nhớt. Riêng với ngành khí nén đặc phù phân mảnh cách thức phân phối dầu kèm phụ tùng thông qua đơn vị bán máy nén khí là chính nên lượng dầu nhóm III rất phổ biến với máy nén khí có mức giá tầm trung. Những thương hiệu máy nén khí hàng đầu như Atlas, Hitachi, Inger, Sullair dầu gốc sử dụng đều là dầu gốc IV, V.
Tuy nhiên năm 2019 có một nghịch lý (Phát triển lùi) lượng dầu giá rẻ Trung Quốc gắn mác đủ thương hiệu Quốc tế. Tức dầu nhóm I, II lại được bán đại chà, có giá rẻ được quảng cáo thay thế dầu chính hãng núp danh OEM. Huy không đả phá chất lượng của chúng vì chúng có giá rất rẻ, chúng vẫn phù hợp dùng cho nhiều mục đích. Điều Huy muốn nhắc bạn. Đừng hiểu nhầm nó thay thế được dầu chất lượng cao. Tất cả hậu quả sẽ tích tụ trong máy nén khí của bạn chờ ngày tất toán với chủ của nó.
Hãy nhớ rằng, bạn chọn loại dầu gốc nào, chỉ cần đảm bảo nó phù hợp với ứng dụng, phạm vi nhiệt độ và điều kiện trong nhà máy của bạn.
Bản thân những thương hiệu lớn cũng cho ra đời những dòng máy nén khí giá rẻ, đi kèm dầu giá rẻ. Bạn hãy thận trọng trong việc sử dụng. Trong nguy luôn có cơ Blog này sẽ cung cấp cho bạn nhiều nhất thông tin có thể để bạn chủ động hơn khi sử dụng.
9, Một số câu hỏi về dầu liên quan gốc dầu
Tôi có thể đổ lẫn hai dầu máy nén khí khác nhau không ?
Huy không khuyến khích bạn trộn hai loại dầu khác nhau. Khi làm như vậy, dầu thứ ba được tạo ra. Dầu thứ ba thu được có thể thay đổi tùy thuộc vào tỷ lệ trộn, ví dụ 50/50, 90/10, 10/90, v.v. Ngoài ra, các hỗn hợp khác nhau này chưa bao giờ được thử nghiệm trong thời gian dài ở nhiều loại máy nén khác nhau. Điều này có nghĩa là tuổi thọ dự kiến của dầu không thể đoán trước được. Hoặc gốc dầu, phụ gia dầu phản ứng biến chúng thành dung dịch không còn đáp ứng khả năng bôi trơn.
Trộn "các loại dầu khác nhau" nghĩa là gì?
Nói chung, dầu tạo từ cùng gốc dầu cơ bản tương tự, chẳng hạn như dầu gốc PAO, có thể được trộn với một dầu gốc PAO khác. Một dầu gốc diester có thể được trộn với một dầu gốc diester khác, và một loại dầu khoáng có thể được trộn với một loại dầu khoáng khác có cùng chất lượng. Sự khác biệt nhỏ về phụ gia thường không đáng kể. Bạn có thể tham khảo mục số & để hiểu thêm. Tuy nhiên Huy khuyên bạn không nên làm. Việc này chỉ áp dụng với những chuyên gia thực sự am hiểu về dầu máy nén khí.
Còn việc trộn Chất làm mát (Coolant) thì sao?
Dầu máy nén khí được gọi là "Chất làm mát" là các loại dầu như Sullube và Ingersoll-Rand SSR Ultracoolant. Chúng bao gồm một este cụ thể & một polyalkylen glycol (PAG). Do sự phổ biến của những loại dầu này nên có nhiều sản phẩm thương mại được gọi là "Chất làm mát", trong khi thực tế chúng có thể không chứa hai gốc dầu cơ bản bên trên. Nên bạn không nên trộn lẫn trong trường hợp này.
Có nên bổ xung dầu cũ vào máy khi thiếu dầu?
Dầu cũ có thể đã hết hoặc gần hết thời hạn sử dụng bình thường. Nếu nó bị hỏng, dầu mới sẽ bị hư hỏng.
Có thể đổ thêm cùng một loại dầu nhưng còn mới, Rất có thể dầu đang hoạt động bị cạn kiệt phụ gia. Với dầu có gốc pha trộn, dầu cũ trong máy có thể không còn đồng nhất. Nên kế hoạch thay thế dầu trong trường hợp này.
Dầu gốc cũng được sử dụng trong mỹ phẩm ?
Vâng chính xác là dầu gốc cũng được dùng cho ngành mỹ phẩm. Chỉ có tạp chất chứa trong dầu gốc gây hại cho sức khỏe con người. Bản thân dầu gốc từ dầu mỏ tinh khiết thì không. Chúng được dùng tạo ra sản phẩm chăm sóc da, bao gồm kem chống nắng, kem dưỡng da, son bóng, kem dưới mắt, kem dưỡng ẩm, chất khử mùi…Dầu gốc trong ngành mỹ phẩm được gọi là dầu khoáng (mineral oil). Lớp mỏng dầu khoáng trên da chúng có tác dụng khóa ẩm cũng như bảo vệ da khỏi các tác động của môi trường và các vi khuẩn khác.
0 Nhận xét